Ghi chú Thảm sát Ponary

  1. Tomkiewicz cho rằng Einsatzkommando 9 đến Vilnius vào ngày 29 tháng 6,[8] còn Arad lại viết ngày 2 tháng 7.[10]
  2. Ban đầu chỉ có đàn ông chờ bị bắn trong hố, còn phụ nữ chờ trong rừng gần đó. Sau vài tháng thì tất cả đều bị lùa vào hố.[48]
  3. Người Đức cố gắng hạn chế việc này nhưng không thành công. SS-Hauptscharführer Weiss từng được cho là đã tự tay bắn chết một nhân viên bị bắt quả tang đang biển thủ tài sản nạn nhân.[54]
  4. Arad cho rằng những người Do Thái bị hành quyết vào lễ Yom Kippur là một trong số lần không được ghi chép vào trong báo cáo của Karl Jäger.[89] Mặt khác, Bubnys lại có ý kiến rằng vụ xử tử này liên quan đến thông tin 1.983 người Do Thái bị bắn vào ngày 4 tháng 10.[92]
  5. Cộng sản
  6. Số liệu báo cáo nguyên bản 3334 là chưa chính xác
  7. Cộng sản
  8. Số liệu báo cáo nguyên bản 1271 là chưa chính xác
  9. 8 người Ba Lan và 6 tù binh Liên Xô
  10. Người Ba Lan
  11. Tomkiewicz cho rằng chuyến này còn bao gồm cả người Do Thái từ Smorgoń, Świru và Widz.[109]
  12. Khu bên ngoài khu ghetto Do Thái. Những người ở đây phải có giấy chứng nhận không phải Do Thái, gọi là giấy Arya hoặc giấy Ki tô hữu.
  13. Arad viết rằng các tù nhân giấu cát dưới đệm ngủ và giữa những tấm ván ngăn phòng.[192]
  14. Danh sách gồm: Mikas Bogotkiewiczius, Petras Czarniauskas, Konstantinas Cziczielis, Jonas Dwilaitis, Jonas Germanaviczius, Antanas Granickas, Augustas Juozas, Wladas Korsakas, Jonas Ożelis Kozłowski, Stasys Liwczinas, Juozas Maczys, Wladas Mandeika, Justas Martisus, Julius Raczkauskas, Władysław Sausaitis, Juozas Świrskis, Jonas Tumas, Stasys Ukrinas, Powilas Waltulionis, Stasys Zalapugas, Bronisław Żelwis, Wytautas Żemaitis.[230]